PHẬT GIÁO
PHẬT THUYẾT: THIÊN TRUNG BẮC
ĐẨU CỔ PHẬT TIÊUTAI DIÊN THỌ.
ÔNG A NAN KỂ: Đúng như thế này: - Chính tôi được nghe , một thời Phật ở Tĩnh Cư Thiên Cung, tập hợp các chư Thiên: Phạm Vương Đế Thích, Bát Bộ Hộ Tứ chúng đàm luận Pháp yếu.
Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trước Đức Phật mà bạch Phật rằng:-Thưa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn, côn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dương, Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ, thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà bảy sao bắc Đẩu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn như vậy?
Cúi xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ tát Văn Thù và đại chúng rằng:
-Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của bảy vì sao ấy, phúc thí quyền sinh, ân thí muôn cõi. Ông Văn Thù này: Khắp cõi tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo tục, dù sang dù hèn, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh. Thiện nam hay thiện nữ, cứ hàng năm ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trước Tinh Tượng, chí tâm xưng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ tát, tùy tâm cầu nguyện ...Có thể thắp 7 ngọn nến bày theo Tinh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa, tinh thủy, dốc lòng cầu khẩn, ắt được như ý.
7 Vị gồm:
ÔNG A NAN KỂ: Đúng như thế này: - Chính tôi được nghe , một thời Phật ở Tĩnh Cư Thiên Cung, tập hợp các chư Thiên: Phạm Vương Đế Thích, Bát Bộ Hộ Tứ chúng đàm luận Pháp yếu.
Khi ấy Bồ tát Văn Thù Sư Lợi Từ đứng dậy, tiến đến trước Đức Phật mà bạch Phật rằng:-Thưa Đức Thế tôn, con thấy hầu hết nhân dân sang hèn, côn trùng xuẩn động, nằm trong Thái, Thiếu, Âm, Dương, Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy Hỏa, Thổ, thảy đều do nơi Bắc Đẩu Thất Nguyên Tinh làm chủ tể. Vì cớ gì mà bảy sao bắc Đẩu giữa Trời có uy quyền, uy đức tối tôn như vậy?
Cúi xin Thế Tôn vì chúng tuyên thuyết, tất cả nhận Thiền và đại chúng đây thẩy đều quy hưởng.
Khi ấy Phật bảo Bồ tát Văn Thù và đại chúng rằng:
-Quý hóa lắm thay, ta sẽ vì ông và chúng sinh ở đời Vị lai tuyên thuyết duyên do để cho đời sau đều hiểu biết công đức lớn lao của bảy vì sao ấy, phúc thí quyền sinh, ân thí muôn cõi. Ông Văn Thù này: Khắp cõi tể quan, cư sĩ, tăng ni, đạo tục, dù sang dù hèn, cũng chỉ có 7 vị Bắc Đẩu Tinh Quân làm chủ bản mệnh. Thiện nam hay thiện nữ, cứ hàng năm ngày 8 tháng 1, ngày 7 tháng 7, ngày 9 tháng 9, và ngày sinh của mình, mặc y phục sạch sẽ, đối trước Tinh Tượng, chí tâm xưng 7 danh hiệu Cổ Phật và hai Bồ tát, tùy tâm cầu nguyện ...Có thể thắp 7 ngọn nến bày theo Tinh vị, rồi nửa đêm dâng cúng các thứ hương hoa, tinh thủy, dốc lòng cầu khẩn, ắt được như ý.
7 Vị gồm:
1-Ngài
Bắc Đẩu: Đại Khôi Dương Minh Tham Lang Thái Tinh quân-cổ phật thế giới Tối
Thắng Đông Phương, hiệu: Vận Ý Thông Chúng Như Lai.
2-Ngài
Bắc Đẩu: Đại Thước Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân-cố phật thế giới Diệu Bảo
Đông Phương, hiêu: Quang Âm Tự Tại Như Lai.
3-Ngài
Bắc Đẩu: Đại Quyền Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân-cố phật thế giới Viên
Châu, hiệu: Kim Sắc Thành Tựu Như Lai.
4--Ngài
Bắc Đẩu: Đại Hành Tiên Minh Văn Khúc Tinh Quân-cổ phật thế giới Vô Ưu Đông
Phương, hiệu: Tối Thắng Cát Tường Như Lai.
5-Ngài
Bắc Đẩu: Đại Tất Đan Nguyên Liêm Trinhh Cường Tinh quân-cố phật thế giới Tĩnh
Trụ Đông Phương, hiệu: Quảng Đạt Trí Biện Như Lai.
6-Ngài
Bắc Đẩu: Bắc Cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân-cổ phật thế giới Pháp Ý Đông Phương,
hiệu: Pháp Hải Du Hý Như Lai.
7-Ngài
Bắc Đẩu: Phiêu Thiên Quan Phá Quân Tinh quân-cố phật thế giới Mãn Nguyện Đông
Phương, hiệu: Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai.
Ngoài ra, còn hai ngài Bắc Đẩu Bồ Tát:
Ngài Bắc
Đẩu: Đông Minh Tả Phù Tinh quân-Bồ tát thế giới Diệu Hý Tây Phương, hiệu: Hoa
Tạng Trang Nghiêm Bồ Tát.
Ngài Bắc
Đẩu: Ấn Quan Hữu Bật Tinh quân-Bồ tát thế giới Diệu Viên Tây Phương, hiệu: An
Lạc Tự Tại Bồ Tát.
Rồi
đức Thế tôn đọc câu Thần chú sau: CHÚ SẠCH 3 NGHIỆP: -ÚM SA PHẠ BA PHẠ - TRUẬT
ĐÀ SA PHẠ - ĐẠT MẠ SA PHẠ - BÀ PHẠ TRUẬT ĐỘ HÁM ÚM HÃT NA - ĐÀN NA - CHA
CHA ĐẾ - MA HA ĐẾ - SÁT CHA- SÁT CHA ĐẾ - HẠT BÁT MA DUỆ - SA BÀ HA ( 3 lần)
PHẬT NÓI KINH BẮC ÐẨU THẤT TINH
DIÊN MẠNG
Vị Tăng tên Bà la môn, từ Thiên Trúc
truyền đến đời triều vua Ðường ở Trung Hoa thọ trì.
Sa Môn Thích Viên Ðức dịch thành Việt văn.
“1-Nam mô Tham Lang Tinh, Thị
Ðông phương Tối Thắng Thế Giới, Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật (1 lạy)
2- Nam mô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phương Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự Tại Như Lai Phật. (1 lạy)
3- Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phương Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật. (1 lạy)
4- Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phương Vô Ưu Thế Giới, Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật. (1 lạy)
5- Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phương Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật. (1 lạy)
6- Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phương Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật. (1 lạy)
7- Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phương Lưu Ly Thế Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật. (1 lạy)
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
2- Nam mô Cự Môn Tinh, Thị Ðông phương Diệu Bảo Thế Giới, Quán Âm Tự Tại Như Lai Phật. (1 lạy)
3- Nam mô Lộc Tồn Tinh, Thị Ðông phương Viên Mãn Thế Giới, Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật. (1 lạy)
4- Nam mô Văn Khúc Tinh, Thị Ðông phương Vô Ưu Thế Giới, Tối Thắng Kiết Tường Như Lai Phật. (1 lạy)
5- Nam mô Liêm Trinh Tinh, Thị Ðông phương Tịnh Trụ Thế Giới, Quảng Ðạt Trí Biện Như Lai Phật. (1 lạy)
6- Nam mô Vũ Khúc Tinh, Thị Ðông phương Pháp Ý Thế Giới, Pháp Hải Du Hí Như Lai Phật. (1 lạy)
7- Nam mô Phá Quân Tinh, Thị Ðông phương Lưu Ly Thế Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật. (1 lạy)
Hằng năm nếu gặp tai ách lễ kinh này bảy lạy.
Khi
bấy giờ Phật bảo Ngài Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Kinh này đã nói có đại oai
thần lực” có công năng cứu độ tất cả trọng tội và hay diệt hết thảy nghiệp
chướng của tất cả chúng sanh.
Nếu
có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, tể quan, cư sĩ, kẻ trai lành, người gái tín, hoặc sang,
hoặc hèn, trong đời sống không luận lớn nhỏ đều thuộc sự thống lãnh của bảy vị
tinh tú này chiếu soi.
Nếu
nghe kinh này thọ trì, cúng dường, chuyển đọc, khuyên bạn hữu, thân tộc, cốt
nhục của mình thọ trì, thì hiện đời được phước, đời sau sanh lên chư Thiên.
Nếu
kẻ Thiện nam và người Thiện nữ nào có kẻ tiên vong đã qua đời mà bị đọa vào địa
ngục, hoặc chịu các thứ khổ sở. Nếu nghe kinh này tin kính cúng dường thì kẻ
tiên vong kia liền xa lìa khỏi chốn địa ngục, được vãng sanh về cõi Cực Lạc thế
giới.
Nếu
có kẻ thiện nam và người thiện nữ nào, hoặc bị loài quỷ mị xâm hại, hay tà ma
quấy nhiễu, ác mộng quái lạ, hồn phách kinh sợ, nếu nghe kinh này thọ trì cúng
dường hồn phách liền được yên ổn, không còn lo sợ.
Nếu
có kẻ trai lành và người gái tín nào, hoặc có sĩ quan sắp bổ chấp chánh. Nếu
gặp kinh này tín kính cúng dường thì vị quan ấy liền được mời sang địa vị cao
cấp, được đại kiết tường.
Nếu
có trai lành và người gái tín, thân bị tật bịnh triền miên, muốn cầu nhẹ nhàng,
nên vào tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, thì tật bịnh ấy liền được
lành hẳn.
Nếu
có kẻ trai lành và người gái tín muốn được tấn đạt, ra đi may mắn, cầu tài vừa
ý, buôn bán phát đạt. Nếu gặp kinh này, tin kính cúng dường liền được tiền tài
giàu có, vào ra an lành.
Nếu
có kẻ trai lành và người gái tín nuôi tằm hư hao, lục súc chẳng yên, liền ở
tịnh thất thắp hương cúng dường kinh này, ruộng tằm vừa ý, lục súc sum vầy,
không còn tổn thất cũng chẳng tai chướng.
Nếu
có người nữ suốt tháng mang thai, khó khăn nặng nề, nếu gặp kinh này tín kính
cúng dường, mẹ con liền được phân giải nhẹ nhàng, ách nạn tiêu trừ, sanh con
trai gái, thân hình đẹp đẽ, quả báo sống lâu.
Nếu
kẻ trai lành và người gái tín biết được Bắc Ðẩu Thất Tinh, rọi chiếu đời sống
nhơn sinh của mình thì trong một đời, hễ có tai ách quan sự miệng tiếng đồn
đãi, trăm điều quái lạ. Nếu gặp kinh này tín kính cúng dường thì không còn một
việc gì mà phải phòng hại.
Lúc
bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói lời ấy rồi, hết thảy thiện nam tín nữ
cung kính tín thọ làm lễ mà trở về. ”

7 vị cổ Phật-Trung
cung là Đại Tổ Như Lai (Thượng đế)
ĐẠO GIÁO
Bắc
Đẩu Thất tinh: Dùng trong bộ Cương đạp tẩu, cúng sao, văn hóa tâm linh rất rộng
rãi…
Thái Thượng Bắc Đẩu bản mệnh diên
sinh chân Kinh, viết:
“Bắc đẩu đệ nhất Dương Minh
Tham Lang Thái Tinh quân, tý sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ nhị Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân, sửu hợi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân, dần tuất sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn Khúc Nữu Tinh Quân, mão dậu sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm Trinhh Cường Tinh quân, thìn thân sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ lục bắc cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân, tị mùi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ thất thiên nhai Quan Phá Quân Tinh quân, ngọ sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ bát Đông minh Ngoại phụ tinh quân
Bắc đẩu đệ cửu Ấn quang Nội bật tinh quân
Thượng thai Hư tinh khai đức tinh quân
Trung thai Lục thuần ti không tinh quân
Hạ thai Khúc sanh ti lộc tinh quân
…………………
Bắc đẩu đệ nhị Âm Tinh Cự Môn Nguyên Tinh quân, sửu hợi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ tam Chân Nhân Lộc Tồn Trinh Tinh quân, dần tuất sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ tứ Huyền Minh Văn Khúc Nữu Tinh Quân, mão dậu sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ ngũ Đan Nguyên Liêm Trinhh Cường Tinh quân, thìn thân sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ lục bắc cực Vũ Khúc Kỷ Tinh Quân, tị mùi sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ thất thiên nhai Quan Phá Quân Tinh quân, ngọ sanh nhân chúc chi
Bắc đẩu đệ bát Đông minh Ngoại phụ tinh quân
Bắc đẩu đệ cửu Ấn quang Nội bật tinh quân
Thượng thai Hư tinh khai đức tinh quân
Trung thai Lục thuần ti không tinh quân
Hạ thai Khúc sanh ti lộc tinh quân
…………………
Bắc đẩu thất nguyên quân năng
giải tam tai ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tứ sát ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải ngũ hành ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải lục hại ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thất thương ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải bát nan ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải cửu tinh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phu thê ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải nam nữ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải sanh sản ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phục liên ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải dịch lệ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tật bệnh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tinh tà ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hổ lang ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải trùng xà ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải kiếp tặc ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải gia bổng ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hoành tử ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải chú thệ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thiên la ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải địa cương ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải đao binh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thủy hỏa ách…..”
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tứ sát ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải ngũ hành ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải lục hại ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thất thương ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải bát nan ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải cửu tinh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phu thê ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải nam nữ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải sanh sản ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải phục liên ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải dịch lệ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tật bệnh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải tinh tà ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hổ lang ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải trùng xà ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải kiếp tặc ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải gia bổng ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải hoành tử ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải chú thệ ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thiên la ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải địa cương ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải đao binh ách
Đại thánh bắc đẩu thất nguyên quân năng giải thủy hỏa ách…..”
THIÊN CHÚA GIÁO
7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh
(vision) của Thánh Jean. Sách Khải
huyền 4.5 nói rõ: “có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của
Chúa Trời”.
CÁC MÔN
PHONG THỦY
* Môn Lục Nhâm, vẽ sao Bắc
Đẩu trên tinh bàn để xem thiên văn, địa lý.
* Môn Bát trạch-Môn Huyền không phi tinh:
-Sinh Khí Tham Lang -Nhât Bạch Tham lang
-Ngũ quỉ Liêm Trinh -Ngũ Hoàng Liêm trinh
-Ngũ quỉ Liêm Trinh -Ngũ Hoàng Liêm trinh
-Diên
Niên Vũ khúc-Tứ Lục Vũ khúc
-Lục Sát Văn Khúc -Lục
Bạch Văn khúc
-Họa Hại Lộc Tồn -Tam Bích Lộc tồn
-Họa Hại Lộc Tồn -Tam Bích Lộc tồn
-Thiên
Y Cự Môn -Nhị Hắc Cự Môn
-Tuyệt
Mạng Phá Quân -Thất Xích Phá Quân
-Phục
Vị là sao Phụ-Bật-Bát Bạch-Tả phù, Cửu Tử-Hữu Bật
* Thước Lỗ Ban
chuẩn:
1-Cung QUÝ NHÂN: NHẤT TÀI
MỘC CUỘC. ( TỐT ).Tham lang tấn hoạnh tài.
2- Cung HIỂM HỌA: NHỊ BÌNH
THỔ CUỘC. ( XẤU ).Cự môn hiếu phục thường.
3- Cung THIÊN TAI: TAM LY
THỔ CUỘC. ( XẤU ). Lộc tồn nhân
đa lãm.
4- Cung THIÊN TÀI: TỨ NGHĨA THỦY CUỘC. ( TỐT
). Văn
khúc chử vạn chương.
5- Cung NHÂN LỘC: NGŨ QUAN
KIM CUỘC. ( TỐT ). Vũ khúc xuân
lộc tinh.Phú quý tự an ninh.
6- Cung CÔ ĐỘC: LỤC CƯỚC HỎA
CUỘC. ( XẤU ). Liêm trinh
tửu sắc thanh.
7- Cung THIÊN TẶC: THẤT TAI
HỎA CUỘC. ( XẤU ). Phá quân chủ tung hoành.
8- Cung TỂ TƯỚNG: BÁC BỜI
THỔ CUỘC. ( TỐT ). Phụ đồng tể tướng tinh.
KÍCH CỠ CỦA THƯỚC LỔ-BAN: Chiều dài chính xác của thước Lổ-Ban này là 520 mm (= 0,52 m).-Được chia ra làm 8
cung LỚN : Theo thứ tự từ cung QUÝ NHÂN đến cung TỂ TƯỚNG như trên. Mỗi cung LỚN dài 65 mm.
-Mỗi cung lớn:
Được chia ra làm 5 cung nhỏ như
trên. Mỗi cung nhỏ dài 13 mm.
KẾT LUẬN:
7 vị Bắc
đẩu cổ Phật (theo đạo Phật)-cũng là 7 vi tinh quân (theo Đạo giáo-và
các pháp môn)-là các Đại thiên thần
theo Thiên Chúa giáo.
Họ chính là Thượng cổ Thiên Thần do Thượng đế sinh ra từ khi khai càn khôn
vũ trụ. Hội đồng 9 vị Bắc Đẩu là Đại tổng quản các Thiên thần; chủ giữ bản mệnh con người, muôn vật.
Về mặt hình thể vật chất: 9 vị Bắc đẩu hợp nhất,
cũng được coi tượng trưng là Đức Vương Mẫu Phật; hay là Mẫu Vương Tiên-Mẫu
Thượng Thiên-Chủ trì Hội đồng chư Phật, chủ
trì đầu thai, nghiệp quả, tạo luân hồi, sinh ra thể xác khí chất tạo nên hình
thể vũ trụ hữu hình; văn hóa Phương đông gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ-cai quản
Thượng Thiên, hay trong đạo Tứ phủ Việt Nam gọi là Mẫu Thượng Thiên. Đạo Cao
Đài gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, đạo Giáo Trung Hoa gọi là Giao Trì Kim mẫu. Chúng
ta thống nhất gọi là Đức Vương Mẫu-hay
là Mẫu Vương Tiên, Mẫu Phật. Cha-Mẹ là 2 phần của Thái Cực âm-dương. Các con tu
luyện về trời phải vô cùng kính trọng Mẫu Vương vĩ đại đã ngàn đời nay tạo tác
mọi mầm sống cho vũ trụ, cho muôn loài chúng sinh.
Tất cả
nhân loại phải thấu hiểu sâu sắc điều này, mới gọi là hiểu về Chân Lý đúng
đắn-Giác ngộ.
Chúng
ta tôn thờ Cha-Thiên Phù như thế, là HỢP
NHẤT TÍN NGƯỠNG-TÔN GIÁO NHÂN LOẠI, vạn pháp qui tôn, vạn phép qui thiện.
Tất cả đều là một gốc sinh ra, chỉ có cách gọi khác nhau, các tôn giáo phân hóa
thành khác nhau.
-Đại
Thiên Thần-Đại Tinh quân-Đại Thánh-cũng chính là các Đức Cổ Phật vậy! Tu luyện
để về Thiên Đường-đồng nghĩa về Niết Bàn. Trên Thiên Đình có Vua-đó là Thượng
Đế. Nên gọi là Vua Cha. Có Mẫu Vương-Mẹ muôn loài. Thần-Thánh-Tiên-Phật cũng
đều là con Cha Mẹ. Các giáo chủ trực tiếp là hóa thân của Thượng đế lâm phàm
dạy Đạo.
CÁCH
KHẤN NIỆM:
-Ai
đeo Thiên Phù, thì nên học thuộc bài thơ Kính Ơn Cha, Kính ơn Mẫu Vương, để đọc
trong những lúc tu luyện, gặp việc cần xin khấn, ngày lễ tết, sóc vọng…
Kính ơn Cha ( Thượng đế)
Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là
Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đưa chúng con vào cuộc trường sinh bất
tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi như gió bên Người
Người là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn
chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Người lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tưới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vươn lên chân chính của muôn
loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Người!
Ôm trọn vòng tay, Người-Vũ trụ, Người
ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hương ngát lên vườn Thượng giới
Ánh mắt con như vạn lời hướng tới
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con như khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thương
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đường
Con cầu mong Cha thường nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tường các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thượng Đế Cao Minh con xin kính thương
Người!
Kính Mẫu Vương
Nơi chính giác Thượng Thiên cõi tám
Đất Phật diệu huyền cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hóa chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho nhân luân số phận làm người
Là cội nguồn sự sống khắp nơi nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự Tháp ngự tình Vương Phật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng mẹ bao la như muôn ngọn thác
Rửa chuộc khổ đau ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài người thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Cho khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ được nở nụ cười
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại Đồng này dâng lên Người thiện ngọc
Là hoa đời cực lạc muôn năm…..
-Cầu,
Khấn xin việc gì đó, nhưng phải thật tâm trong sáng, chân thành, cấm cầu các
việc ác, tranh tham danh lợi…
-Đọc xong thì hướng về phương Bắc-hướng sao
Bắc Đẩu-quì lạy 9 lạy: Quì, chống
gối, cúi đầu, rập đầu xuống sát đất, hai tay đặt song song, úp xuống đất, để
trước gối. Mỗi lần quì, ngẩng lên, lại đặt tay vào ngực, như lễ trên, rồi lại
rập đầu.
CÁCH SỬ DỤNG THƯỢNG ĐẲNG
THIÊN PHÙ:
1-Mang
Thiên Phù, phải giữ lòng lành thiện trong mọi lúc, mọi việc.
2-Vào ngày có số 7, hoặc 9, hoặc vào ngày sinh nhật mình, để nhớ về Trời,
ơn Thượng đế, chúng ta hãy hướng về phương Bắc, nhìn lên 7 ngôi sao Bắc Đẩu,
khấn niệm điều thiện lành cho mình, gia đình và nhân loại.
3-Học Thiền hàng ngày để giảm rung động thể
vía xuống để an lạc và chữa bệnh.

Khi
thiền định, hay luyện khí công chúng ta hình dung 7 sao Thiên Phù trùm lên,
trùng với 7 sao bản thể luân xa của chúng ta; khi thiền, chúng ta quán tưởng
bản thể mình trùng với 7 sao Bắc Đẩu, trục Hoả xà trùng trục Thiên Phù; tinh
thần bành trướng ý thức ra toàn Vũ Trụ.
-Nếu
xuất được hồn vía, ý thức ra khỏi bản thể, chúng ta đi xuyên lên 7 sao Bắc Đẩu
này, tâm thanh sáng, xả bỏ mọi trọc khí ám khí xung quanh bản xác thể hàng
ngày, chắc chắn luyện như thế đã đắc
thoát luân hồi thường chuyển.
4-Khi
có bệnh tật: hình dung ốp Thiên Phù vào người, rồi hình dung có một dòng năng
lượng vũ trụ màu sáng, chảy từ trên cao theo dây Từ khí xuống luân xa
số 7 ở đầu, chảy dọc theo trục Thiên Phù, xuống đến Đan điền, hoặc hình dung
dẫn khí theo ý từ đỉnh đầu đến tất cả những kinh mạch, tới nơi đau bệnh, niệm 7
vị Tinh quân Bắc đẩu cứu độ, chắc chắn bệnh sẽ bớt.


5-Khi
gặp ma tà quỉ ám, việc khó, kẻ xấu ám hại, việc xấu quấy phá…quay về phương Bắc
đẩu, niệm phép khấn Vua Cha Cao Minh Ngọc Hoàng Thượng đế, Mẫu Vương Tiên, cùng
7 vị Thất tinh Bắc đẩu quản số mệnh con người và muôn vật, xin các Đại cổ Thiên
Thần này cứu độ, cứu chữa….Với tâm thiện, cấm cầu các việc ác. Nếu cầu việc ác,
sự thể sẽ quay ngược quả lại mình.
-Xưa kia và bây giờ, các thầy bà phù thuỷ, hay
đồng cốt đều dùng kiếm Thất tinh để trừ tà, đóng cọc hình sao Bắc Đẩu để trấn
yểm, phá yểm bùa bả, hoặc phá rớp tai nạn, hoặc dùng bộ Đạp cương tẩu để luyện
phép phù thuỷ…
Nay
chúng ta với tâm thế tốt, hãy niệm Thiên Phù trùm lên các sự trên để hoá giải,
với lời khấn nguyện trong sáng, chân thành, tất được như ý.
6-Vào
lúc giờ thứ 9 trong ngày, tức giờ Thân-ngồi xếp bằng, lạy 9 lạy, hướng về
phương Tây, khấn Đấng Trung Phương Thiên Tôn cứu độ, chữa bệnh, giải hạn ách,
tất được như ý. Hình dung và sẽ được một dải ánh sáng bạch kim chảy vào luân xa
4, hoặc 6. Khi niệm phép này rồi thiền ở Luân xa 6-tức sao 6, có thể tuyến tùng
mở, con mắt thứ ba hay huệ nhãn sẽ mở, xuất hiện thần thông…Tất nhiên phải kiên
trì, tập lâu, giữ lòng lành thiện.
7-Khi
niệm Thiên Phù, tất cả mọi long thần, thổ địa, thành hoàng bản thổ bản cảnh,
thần thánh tiên phật, đến quỷ ma đều kính trọng, tuân theo Phép Luật Thiên
đình-phép luật cao nhất thuộc Chân Lý Tối thượng. Khi niệm vào người, rung động
nguyên tử lượng của các tế bào sẽ tăng, nội năng tiến hoá, linh hồn bẩm thụ
nguyên khí chất Thượng thanh nơi Bạch Ngọc cung và Ngọc Hư cung nơi Vua Cha và
Mẫu Vương ngự, linh hồn đó sẽ được thanh thoát hơn, bệnh nạn tiêu trừ, nghiệp
kiếp lược bỏ; phát tâm nguyện hồi về Thiên giới, tất được như ý sau khi bỏ xác
trần.
8-Vào
các ngày Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí, là ngày thông cung, muôn vật
nhập trung cung, nếu niệm, thiền, ốp Thiên Phù vào người, luyện khí công, khai Thiên
Nhãn, cũng được phép màu cứu độ.
9-
Cho phép tự đúc, in Thiên Phù theo cách riêng, nhưng phải đúng hình Thiên Phù.
Người
mang Thiên Phù không là tôn giáo, không cần thành môn phái. Tất cả mọi người,
mọi quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có thể sử dụng như nhau, khi đã tôn vì một
Đấng Sáng tạo Tối cao.
………………
-Thờ
Thượng đế, có Thiên phù, thì không cần làm lễ giải sao giải hạn, cúng sao…như cũ nữa; vì như thế
là có thường xuyên đầy đủ thờ cả Thiên đình, các sao, thần, thánh, tiên, phật
đều chứng ứng. Thờ như trên cũng là thờ chính bản mệnh mình (sao bản mệnh trong phép tử vi-ai cũng rõ,
nên rất lợi ích tâm linh, tâm đạo).
Không đọc chú, lạy như các tôn
giáo trên: Chỉ đọc Kinh Kính ơn Cha, lạy 9 lạy, đọc chú:-“ Cha Thiên linh Đại linh linh,
Mẹ Thiên linh Đại linh linh, Thầy Thiên linh đại linh linh, phù hộ…” là
được. Và phải tu luyện Thiên Pháp để
tiến hóa, mới giải được nghiệp quả, vãng sanh tịnh độ về sau.
-Quán tưởng nhập giáng Thiên Phù khi tập Thiên pháp,
quán nhìn vào Thiên Phù để lấy năng lượng cộng hưởng của Vũ trụ-Thượng đế.
RẤT Ý NGHĨA VÀ CAO THÂM Ạ - ADI ĐÀ PHẬT!
Trả lờiXóaHay và ý nghĩa
Trả lờiXóaHay và ý nghĩa
Trả lờiXóa