Thứ Hai, 23 tháng 3, 2015

LUẬN BÀN VỀ VIỆC CÚNG LỄ

LUẬN BÀN VỀ VIỆC CÚNG LỄ
Thường thì chúng ta hay nhầm lẫn giữa Cúng, Bái và Lễ. Vậy đầu tiên hiểu Lễ là gì ? Người xưa đã bàn nhiều về Lễ và còn ghi lại rất nhiều trong các sách xưa của các học giả như Khổng tử, Mạnh tử, Tuân tử, Aristotle…nhưng ở thời đại khoa học vũ trụ , phát triển của vật lý lượng tử, trường sinh học, công nghệ phản trọng lực, hợp hạch,… Chúng ta cần có một cách nhìn hợp với thời đại mới này !. 
Lễ là một danh từ rất bao quát, hàm súc rất nhiều ý nghĩa: tựu chung lại là Lễ là Định vị trí của con người, mỗi người với Trời đất, với Tổ quốc, với Xã hội loài người từ đó khi hiểu vị trí, ý nghĩa mục đích, bổn phận của mình rồi thì mới biết được mình phải cư xử ra sao đối với vạn vật sinh linh, Trời đất, môi trường quanh mình. Hiểu Lễ thì mới biết mình biết người, biết Trời, biết Đất mới thấy được trách nhiệm và quyền lợi của mình với cuộc sống này, hơn hết là biết được ý nghĩa của cuộc sống và xác định được mục đích để mà tiến hóa của Linh hồn để tiến tới Chân, Thiện, Mỹ trong kiếp người này của mình. Vậy Lễ là hiểu và hành sao cho hợp Luật Trời, hiểu lẽ tôn ti của Trời đất (thuận quy luật tự nhiên, quy luật vũ trụ) và theo Luật Nhân (Luật của xã hội loài người do con người đặt ra).
Luật Nhân do con người tạo ra chính dựa theo tôn ti trật tự của Trời đất mà mình định ra tôn ti trật tự cho xã hội loài người ở cõi trần này, có như vậy xã hội loài người mới thái bình an lạc được từ đó mới định được bổn phận, nghĩa vụ, quyền của mỗi người. Khi thực hiện các Nghi thức của Lễ đó là mỗi lần chúng ta nhận thức sâu sắc hơn các quy luật tự nhiên, quy luật vũ trụ để hòa hợp với tự nhiên với vũ trụ càn khôn, nhắc nhở mình đang ở đâu và có bổn phận, nghĩa vụ, mục đích gì trong kiếp sống này hay cũng chính là Hợp Đạo vậy !
Lễ là kính Tổ kính Tiên.
Lễ là hiểu Đất, hiểu Trời, hiểu Ta.
Lễ thời phải biết gần xa
Lễ là Định được chỗ Ta với Người
Tôn ti trật tự trong ngoài
Quy luật vũ trụ xoay vần vần xoay
Hiểu Người hiểu Đất hiểu Trời
Mới hay phép Lễ làm Người phải thông !
Người biết Lễ trong ngoài trật tự
Lẽ tự nhiên cư xử tùy thời
Luật Thiên tiến hóa muôn loài
Thuận theo Thiên Đạo hợp thời hợp Nhân
* Bàn thêm về Lễ : Lễ là điều hợp lý ! là đầu mối của con người vì xuất phát từ Trời và phổ quát khắp các cõi bao gồm cả cõi trần gian do đó Lễ là một đặc tính trong mỗi Linh hồn con người. Biết Lễ thì nên hành cái gì làm cho đời sống ta thêm mạnh khỏe, thêm thư sướng, thêm trật tự, thêm an lạc, thêm hòa hợp, thêm văn minh, thêm tiến bộ. Cái gì làm ta sống xứng đáng với danh nghĩa con người, cái gì nâng cao giá trị con người, khiến con người tiến về phía tinh thần, trở nên thanh cao, tiến hóa thì nên hành. Cái gì làm con người trở nên ti tiện, manh ác, tàn độc, trở nên thoái hóa giống như thú vật thì không nên hành. Đó là hiểu và hành theo Lễ vậy ! 
Nếu mỗi người đều hiểu Lễ và hành Lễ thì gia đình hạnh phúc, xã hội công bình, văn minh, quốc gia thanh bình, thế giới tươi đẹp và cõi trần trên Trái đất sẽ là Thiên đường an lạc. Xã hội ngày này đa phần con người không hiểu Lễ nên mới dẫn đến thoái hóa, thác loạn, tranh cướp, chiến tranh,… cũng vì không hiểu mình là ai, đang ở đâu giữa trời đất này và mục đích của kiếp nhân sinh này. Ngày nay chữ Lễ đã bị hiểu một cách lệch lạc méo mó, và việc hành Lễ ở nhiều nơi chỉ còn hình thức mà quên cái ý nghĩa, cái hồn của Lễ làm biến tướng đến độ một số Bạn Đạo cũng hiểu nhầm việc hành Nghi Lễ là cái gì đó rất mê tín và dị đoan. Dẫn đến việc ngại ngùng và có thành kiến chưa đúng về hành Lễ . Thậm chí coi các Nghi Lễ chỉ là hành động Cúng và Bái. Nhận thức chưa đủ sẽ dẫn đến việc mất tự nhiên khi hành Lễ, vì Lễ là Lẽ tự nhiên là điều hợp lý, cho nên đáng lẽ việc hành cũng phải hết sức tự nhiên từ trong bản chất của mỗi người vậy. Từ đó chúng ta cùng tìm hiểu thêm về Cúng và Bái để nhận thức sâu đậm hơn về Lễ và phép hành Lễ. 
* Cúng, Bái: Cúng là một động từ dân gian thường dùng thể hiện hành động của mình đối với các đối tượng tâm linh. Thường là dâng hiến các vật phẩm lên cho các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, Trời, Đất,… để mong cầu một điều gì đó. Trong các Nghi Lễ Tôn giáo, Hội Đám thường có hành động Cúng này, cho nên người Đời thường hay ghép thành Cúng Lễ, chứ thực ra trong các Nghi thức của phép Lễ không nhất thiết phải có hành động Cúng. Chúng ta giờ có thể phân tích để thấy sự khác biệt giữa 2 câu mà ngày nay đã phổ biến là “Đi Cúng Thầy” của học sinh, sinh viên bây giờ và “Đi Lễ Thầy” của học trò thời xưa. Bái (Vái): là hành động Chấp hai tay đưa lên trán cầu nguyện. Có thể thấy người biết Cúng thì nhiều mà mấy ai hiểu Lễ và hành được Lễ đây ! Thế nhân đi Chùa thì cầu Lộc, cầu Tài, đến đền, phủ thì cứ cầu xin đủ thứ bốc quẻ , bói toán, lên đồng, vậy là không hiểu và biết về Chùa, đền, phủ , Phật, Thánh, Thần, chưa thấu vai trò và chức năng , quyền năng của các nơi ấy, các vị ấy. Vậy đã hiểu Lễ chưa? Đến để mong cầu dâng vật thực, vậy đã hiểu Lễ chưa? 
Là người đệ tử của Thiên Đạo, học Thiên Pháp mà chưa thông hiểu Lễ thì sao biết được vị trí và vai trò của mình giữa Trời Đất đây, Ta đang ở đâu trong dòng tiến hoá này? Chưa thấy được vị trí của mình thì sao định hướng được mục tiêu cho hành động của mình đây? Trước khi đến đây Ai là Ta, sau này Ta sẽ là Ai ? Nếu biết Lễ phỏng sẽ không khó để trả lời cho câu hỏi trên. Rồi nhiều Bạn Đạo cũng rất hiểu Lẽ Trời đất rồi, nhưng lại rất ngại hành, cho nên người hiểu Lý thì nhiều nhưng hành có mấy ai. Có thể Lòng Bi chưa đủ, Dũng khí còn thiếu, Trí chưa đủ hoạt, cho nên vẫn còn e ngại thói phàm, dư luận, truyền thông, còn bị cuốn theo định hướng của số đông những tư tưởng ở cõi thấp. Chưa thoát ra vượt lên trên nó thì chưa đủ làm chủ thân tâm vậy. Cho nên việc hiểu Lý là một chuyện, chuyện Hành lại là một cấp độ khác. Vậy học trò Thiên Pháp cần thực hành Nghi Lễ để thấu lẽ bí nhiệm huyền vi của Thiên, Địa, Nhân, mối quan hệ biện chứng thống nhất và toàn thể. Tu và thấu Tứ Đại Định Đức sẽ biết vị trí của mình cũng là biết Lễ đó. Các phép Lễ đã có được trong Lễ Kinh của Thiên Đạo, chúng ta cần tự hành qua đó mà thấu hiểu Thiên Đạo cũng là Gốc của mỗi người. Thế nhân mà hiểu Lễ Trời Trần miễn sẽ hóa Thiên Đường đẹp xinh.
Sưu tầm

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

GIOI THIEU VE THIEN DINH.


Thiên đình: Là cơ quan quyền lực tối cao của vô số Vũ trụ, hiện có hàng
trăm ngàn tỷ Vũ trụ con, trong đó có Vũ trụ của chúng ta, dưới quyền
lãnh đạo của Vua Cha - Cao Minh Trung Phương Ngọc Hoàng Thượng
đế - Đây là Thượng đế Nguyên thủy sinh ra Vũ trụ Tối cao và tất cả mọi
linh hồn, đại tổ càn khôn, Vua Trời, Cha lành sinh ra tất cả các thần thánh
tiên phật, các vị Thượng đế Thiên tôn. Trung Phương là ở trung cung, ở
tâm giữa vũ trụ, của các vũ trụ. Xưa người ta gọi là Đại la Thiên Vương
tức vua của các Thiên vương, thực chất Ngọc Hoàng Thượng đế là Vua
của các Vua vũ trụ con. Các tôn giáo, các dân tộc gọi là Đức Chúa Trời
Thánh Allah, Giàng, Then, Brahma, God, Dieu,…Có bà Mẹ Vũ trụ là Đức
Vương Mẫu Tối cao, chủ phần Thái Cực Âm tính, chủ phần đầu thai luân
hồi nghiệp quả và chủ quản nhân số của muôn vật, đến con người, còn
gọi là Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thiên, Phật Mẫu, Mẫu Vương Tiên, Diêu
Trì Kim Mẫu…Đức Mẹ trực tiếp chưởng quản 72 cung Tiên Thượng
Thiên và các cõi Tiên dưới quyền Vua Cha Thượng đế.
Thiên đình có 325 cung Trời chính (còn có thể gọi là các tầng trời hay
tầng cảnh giới), tất cả là các cõi Thiên  đường, trong đó có 1 cung chính
là Ngọc Hư Cung và  điện Linh Tiêu của Thiên đình cùng 72 cung Tiên
thuộc tầng Trời Tối Đại Thượng Thiên ( Tối đại Niết bàn-cao nhất). Nơi
này Thượng  đế và Mẫu Vương  sinh ra các Thiên thần nguyên thủy của
vũ trụ (các Tiên thần Tiên Thiên). Đây là các thiên thần siêu phàm nhất
vũ trụ. Sau đó là 36 cung Nguyên Thủy thuộc tầng trời Đại Thượng Thiên
(Thượng Đại Niết Bàn), của các vị Thượng đế Thiên Tôn Nguyên thủy.
144 cung thuộc tầng trời Trung Thượng Thiên (Đại Niết Bàn) ( Tất cả là
252 cung quan trọng nhất-số 252 là mẫu số chia hết cho số 7, 9, 12, 28),
còn 72 cung nữa thuộc tầng trời Tiểu Thượng Thiên-thuộc Trung cung
Vũ trụ Tối cao thuộc khu vực Bạch Ngọc Kinh là nơi hội họp của Thượng
đế với quần thần  (Trung đại Niết bàn); vậy có tất cả là 324 cung Trời cơ
bản và 1 cung là Ngọc Hư cung và điện Linh tiêu là nơi Vua Cha nghỉ
ngơi-tất cả là 325 cung. Ứng với nó là 325 loại hạt hạ nguyên tử nguyên
thủy. Sau này sẽ là cái nguyên lý để các nhà khoa học tìm ra bản nguyên
của vũ trụ. Đây là các cung của các Đại Thượng đế Tổng hồn của các
cụm và đại gia đình các vũ trụ con, tất cả dưới quyền Vua Cha Thượng đế
Tối cao Nguyên thủy.
Dưới và trong các cung này là vô số các vị Thượng đế Thiên Tôn chủ trì
vô số các Vũ trụ thành viên trong các quần thể Vũ trụ tự trị. Rồi đến các
cõi thuộc Trung giới có vô số cung, rồi mới đến các Đại thiên hà, các
thiên hà tự trị và các Thiên Vương Tinh quân, các sao, các thần tinh, dưới
các thần tinh là các cung của Phật, các tôn thần, thánh (Phật, thần, thánh
đều thuộc về các Vũ trụ do các vị Thượng đế quản lý. Linh hồn đầu thai
học hỏi, đắc đạo trở về là phật, thánh, mới được dạy, rồi bổ nhiệm là
thành lập các Vũ trụ, mới thành các vị Thiên Vương Tinh quân, hoặc các
vị Thượng đế Mới. Các vũ trụ con cũng có Thiên đình riêng-gọi là các
Vua Trời-trở thành các Đấng sáng tạo). Riêng Tiên và cõi tiên thuộc các
tầng Nguyên thủy tối cao, là cõi thanh cao nhất, các tiên vị nguyên thủy
sinh ra sẽ được đầu thai về các thế giới và làm người để học hỏi thành các
Phật, thần, thánh. Thần cai quản các cõi thấp hơn, trong đó có các thần
thổ địa, Long vương…
(còn tiếp)
http://thanhductoancau.blogspot.com/2015/03/gioi-thieu-ve-thien-inh.html?utm_medium=facebook&utm_source=twitterfeed

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

HƯỚNG DẨN LÀM LỂ GIẢI HẠN GIẢI ÁCH.


                                                           HƯỚNG DẪN
TỰ LÀM LỄ CẦU GIẢI HẠN ÁCH, NĂM XUNG THÁNG HẠN, CHỮA BỆNH NẶNG. XIN TĂNG SỨC, AN LẠC.
          
                                                          Lập 3 mâm Lễ:

-Vật phẩm tùy tâm
Yêu cầu:
                                Nếu có Thiên Phù thì treo trên cao ở giữa rồi hành lễ

Mâm 1-Lễ Vua Cha, Mẫu Vương và Thiên đình: Toàn đồ chay tịnh: Hương hoa, chè, xôi, bánh, không đốt hương đen.
-Mâm đặt cao nhất. Đốt 3 ngọn nến, đặt ngang hàng, ngọn ở giữa cao hơn hai ngọn bên.
Mâm 2: Lễ các vị tôn thần, thiên binh tướng, Táo quân, thành Hoàng, long thần bản thổ.
Mâm này lễ đồ mặn, tiền thật, rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở giữa.
Mâm 3: Lễ gia tiên ( Cửu huyền thất tổ).
- Mâm này lễ đồ mặn, tiền thật, rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở dưới thấp hơn mâm 2.
-Các mâm dùng cốc để cắm mỗi mâm 3 nén hương.
-Khấn như trong sớ. In ra đọc rồi đốt.
          
                   “THIÊN ĐẠO THÁNH ĐỨC-PHỔ GIÁO CHÚNG SINH
                             ĐẠI ĐỒNG-ĐẠI THIỆN-ĐẠI MỸ-ĐẠI LINH
                                                     

                                                            SỚ CẦU
                                   Chữa bệnh, giải hạn ách, được an lạc

Con xin Kính thỉnh:
-Vua Cha Cao Minh Ngọc Hoàng Thượng đế- Đại tổ các tôn giáo và Thiên Đạo.
-Đức Vương Mẫu Đại từ bi.
-Hội đồng chư tôn Phật, Thần, Thánh, Tiên các tôn giáo.
-Các Đại cổ  Thiên thần Bắc Đẩu Thất tinh, Nam Tào, Bắc Đẩu quản số mệnh.
-Các quan Giám điện Thiên triều, Ngũ vị Vương quan, Đương niên Thiên quan Thái Tuế Chí đức Tôn thần, các vị  Thiên Tôn; các cung trên Thiên đình.
-Các ngài Đông trù Tư mệnh Táo phủ thần quân, Long thần, Thổ địa, Thành hoàng bản thổ.
-Cửu huyền thất tổ bản gia.

                                       Hôm nay là ngày… …  tháng……..năm .....
Chúng con gồm:
                              Họ và Tên:…………………………………Tuổi………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………....................
Bản gia ngụ tại: đội (thôn)………………………………………….
Xã (phường)………………Huyện (thị trấn)………………………..
Tỉnh (thành phố)……………………Thuộc nước………….
Hôm nay chúng con có lễ kính dâng lên Thiên Đình  và các đấng bề trên, mong các đấng bề trên giáng hạ, ngự lãm.

                       Chúng con xin kính thỉnh Cha, Mẹ và các Thầy việc như sau:
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
-Kính xin Cha, Mẹ, Các thầy cứu độ.
-Con xin sám hối những tội-lỗi đã mắc phải trong đường ăn đường ở còn sai xót từ trước đến nay.
                                                       

                                     Kính ơn Cha ( Thượng đế)

Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là  Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng  ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đưa chúng con vào cuộc trường sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi như gió bên Người
Người là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Người lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tưới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn  Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vươn lên chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Người!
Ôm trọn vòng tay, Người-Vũ trụ, Người ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hương ngát lên vườn Thượng giới
Ánh mắt con như vạn lời hướng tới
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con như khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thương
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đường
Con cầu mong Cha thường nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tường các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thượng Đế Cao Minh con xin kính thương Người! 
          Kính Mẫu Vương

Nơi chính giác Thượng Thiên cõi tám
Đất Phật diệu huyền cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hóa chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho nhân luân số phận làm người
Là cội nguồn sự sống khắp nơi nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự Tháp ngự tình Vương Phật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng mẹ bao la như muôn ngọn thác
Rửa chuộc khổ đau ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài người thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Cho khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ được nở nụ cười
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại Đồng này dâng lên Người thiện ngọc
Là hoa đời cực lạc muôn năm…..

                                  Họ và Tên:……………………Kính tấu!   
 



















                                                                                                         ”


             -Khấn xong, để khoảng 20 phút thì tiễn các ngài, quì xin hạ lễ, rồi đốt sớ cầu.
                                                    
                                                     Một số điều lưu ý:

-Cấm khấn các việc ác, hay cầu lên quan chức cốt để tham quan ô lại, học dốt đi thi lấy may, buôn bán gian trá, hại người thiện, tranh đoạt, cầu tiền ích kỷ vinh thân phì gia
 ( Tự phấn đấu, không ai độ cho những việc cơ hội tâm linh. Vì chúng sinh nhiễm lậu, cầu lợi cơ hội, nên làm nhiễm tạp tất cả các cảnh chùa, đền trong thời mạt pháp các đạo,bề trên không độ trì cho các việc ấy)
-Chỉ được cầu giải hạn ách, thêm sức chữa bệnh tật, xin trấn áp kẻ ác, bản mệnh an lành, thêm tuổi thọ, gia đình xã hội hạnh phúc, an lạc.
-Kỵ cầu không được, thì chửi, báng lại. Bệnh nạn, do nghiệp chướng, nghiệp quả  nặng, là do căn số phận, tội lỗi các kiếp trước, kiếp này gây ra-không ai ghánh thay cho những thứ đó, muốn được cứu độ, phải tin tưởng, có lòng kính tín tâm linh chân thành, phải sửa tính
xấu thường ngày nếu có, như: hận thù, thói xảo ngôn, hồ đồ, ghanh ghen đố kỵ, tranh tham, buôn gian bán lận, khinh thị người nghèo, ác tâm, xảo trá vô minh coi khinh thế giới tâm linh, thói chửi trời rủa đất ghét nắng chửi mưa, phá hại, gây ô nhiễm môi trường, tàn sát tôm cá, làm nghề hàng giát, giết mổ, bóc lột người nghèo, tính ác hại người thiện, hay bới lỗi người khác, ghét kẻ chân chính hơn mình; tranh dành công danh tài lộc, tham nhũng, đánh vợ chửi chồng, thích giết hại chúng sinh, thói xấu trong ăn uống nghiện ngập, ngại giúp lại người khác… Tất cả những người này, nếu cầu mà không thấy khỏi, thì chớ trách Trời.
-Chống Cơ hội tâm linh (bạ đâu cũng cúng, cũng cầu, nhưng bảo sửa tính, hay tu luyện, làm phúc, ăn chay lấy vài ngày để chữa bệnh, thanh lọc cơ thể, luyện dưỡng sinh thì lại ngại! Đi đâu cũng khấn vái, nhưng hỏi đạo đức Phật giáo là gì, thánh thần đó đạo hạnh ra sao, thì không biết; bảo thờ tự Cha Trời, thì ngại, đọc kinh chép sách, cốt chỉ là hình
tướng. Nhưng lại sẵn sàng cúng bất cứ gốc cây, hòn đá hay có vong tà ma quỉ ác nào đó, là sụp lạy, miễn là thấy thiêng, thấy được việc, nhưng đó là vay rồi phải trả…số phận chỉ thay đổi, khi đức năng thắng số).
Thời mạt thế, chúng nhân đi chùa chiền đình đình điện nhiều, nhưng không thấy ai cầu cho mọi người cùng hạnh phúc, nhân dân thái bình, cầu độ cho sáng tâm sáng lòng, giác ngộ Chân Lý, hết vô minh; chỉ toàn cúng xin lộc, tiền, danh, tài; ai cũng như thế, thì sao xã hội chả rối reng! Đó là điều mạt pháp các đạo từ đầu thế kỷ 20 rồi, thấy chúng sinh đi chùa đền nhiều, là người nghiêm túc, thì thấy  không đáng mừng, vì cốt cầu lợi danh, chứ không còn người tôn sùng tôn giáo ấy mà tu tập theo, hay đến đó để ngưỡng vọng đạo đức những vị thánh thần ấy để học tập theo. Hiện các đạo đều mạt pháp, theo luật mới của Thiên đình, tốt nhất là thờ Trời ở nhà và tu luyện để tự cứu mình trước khi trời cứu. Kẻ đi cầu nhiều mà hết được bệnh, hết nạn hiện nay rất hiếm. Chớ mê muội.
-Những căn bệnh lớn, nghiệp quả nghiệp căn sâu nặng nề, thì phải làm theo 9 điều không phạm, tự tu luyện lấy, tự cứu độ mình là chính, làm phúc làm đức, may ra mới giải được! Phải làm lễ giải tại nhà, rồi sau đó phát nguyện đi làm công đức cho những người nghèo khổ, giúp người khác, hoặc thờ Trời, thiền tịnh tu luyện khí công cho mau hết bệnh.
-Đối với người Thiên chúa giáo, Hồi giáo, có thể khấn Đức Chúa Trời ( cũng là Vua Cha Thượng đế- ông Trời); có thể không đọc bài Kính ơn Cha, thì đọc bài kinh bên Thiên Chúa giáo, Hồi giáo cũng được. Nên kính tất cả các thiên thần-Thực chất là như nhau trên thiên đình, cách gọi khác nhau mà thôi.
-Đối với việc siêu thoát cho vong linh tiên tổ, thì phải ghi tên tuổi, năm sinh, năm mất của người vào sớ, xin Cha, Mẹ, các thánh thần cho họ siêu thoát, phải kêu đến tên các vị xin siêu thoát ấy về dự lễ. Sau đó, phải hồi hướng công đức lại cho người nghèo khổ, làm từ thiện, để trả thay nghiệp quả cho tổ tiên, bù lại thì tiên tổ do được siêu thoát, trở lên linh thiêng, sẽ độ trì lại cho tốt đẹp. Các vong đã qui sai vào chùa, nếu chưa được các Phật độ cho siêu thoát, thì cần làm lễ siêu thoát, tránh để vật vờ ăn xin đói lạnh nơi cửa phật-nơi đó là nơi tu hành, chứ không phải là  nơi chứa xương cốt, ảnh của người chết ngoài đạo Phật.
Đạo Phật vốn không công nhận có linh hồn, không Thượng đế Tối cao, không cúng mặn, không cúng vàng mã; sư sãi không đi cúng, không xem bói, không ăn mặn. Chỉ nên khấn Phật cứu khổ cứu nạn-khi mình biết đạo đức nhà Phật, tin, theo đạo Phật; còn nếu tham-sân-si thì chớ cầu-vô ích.
-Đối với việc hóa giải tâm linh như bắt tà ma, phá bùa bả yểm đảo, thì cứ tấu trong Sớ bề trên sẽ xét giải cứu.
-Đối với việc hóa giải hàn long mạch, nối long mạch, hóa giải thổ đất, cuộc đất hay phong thủy, tẩy vía, trong thổ đất có xương cốt, thì có thể cũng làm Sớ mà trình tấu, nếu phức tạp thì phải nhờ thầy ngoại cảm đến nơi nghiên cứu thêm.

-Nơi có nhiều âm khí, sát khí, nơi có rớp tai nạn đường xá, sông ngòi, các nơi chiến trường, nghĩa trang….thì cũng làm lễ như trên để lễ hóa giải, siêu độ. Niệm Thiên Phù ốp áp xuống mà phá giải. Niệm Bắc Đẩu Thất Tinh phá hóa đi. 

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2015

LỊCH SỬ VIỆT – THẾ GIỚI
Giải mã gene người Việt cổ

Nhà văn Nga V. Rasputin đã viết “Không làng quê, chúng ta sẽ mồ côi”. Vì thế những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi từ đâu tới? luôn đau đáu trong tâm thức mỗi người dân Việt.

Những năm gần các nghiên cứu về Việt tộc và Hán tộc của các nghà nghiên cứu trên thế giới đem lại những kết quả bất ngờ.Các nhà khoa học của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại Sỹ, GS Tarentino (người Ý) và GS sinh vật học Varcilla Pascale (người Pháp) đã khảo sát y phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau đó kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa Bắc đã kết luận: Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung VN, Lào, Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc và hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực song Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ sông Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.
Vua Hùng Vương.
Phát hiện đảo lộn. Năm 1998, GS  J.Y. Chu và 13 đồng nghiệp ở ĐH Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi vệ tinh” DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2 nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Newn Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu.
Công trình nghiên cứu Ða dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project ) do giáo sư Y. Chu chủ trì, được công bố đã đảo lộn nhận thức của giới khoa học về nguồn gốc của người Ðông Á. Qua đó, có thể khẳng định: Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu. Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền khác với người Trung Quốc ở phía Nam Trung Quốc.Đặc biệt, các công trình nghiên cứu mới nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn phát tích của cư dân vùng Đông Nam Á đã làm sáng tỏ một sự thật là tất cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một cội nguồn chủng tộc.Giáo sư Douglas C. Wallace (ĐH Emory, Atlanta và Georgia) đã phát hiện một đột biến di truyền đặc biệt cho lục địa châu Á. Đó là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII và tRNA.LYS.Dân tộc cổ xưa nhất. Nhà nhân chủng học Tréjaut nghiên cứu về thổ dân Đài Loan, dân Đông Nam Á và dân Đa Đảo đã công bố: Thổ dân Đài Loan đã định cư trên 15.000 năm và cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai.  Dân Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này. Yếu tố mtDNA B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia, thổ dân châu Mỹ và dân Đa đảo.Nhà nhân chủng Melton và Redd tìm thấy cư dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của cặp căn bản số 9 ở hai thể di truyền COII/ TRNALYS.GS.Christian Pelzes chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á học ở ĐH Hawaii đã nhận định rằng trong các tiểu bang và các nền văn hóa của xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ thì quần đảo Hawaii có quan hệ thân thuộc nhất với VN. Nhà nghiên cứu Bob Krauss đã so sánh Hawaii với Việt Nam trên các phương diện địa lý và dân tộc đã tìm ra rất nhiều điểm tương đồng và các chứng liệu cổ sử học, nhân chủng học, ngôn ngữ tỷ hiệu và nhất là Mitochondrial DNA Haloptype B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền COII TRNALYS chứng minh dân Đa đảo (Polynesian) là hậu duệ của dân Bách Việt.Dựa trên những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục, tạp chí Science Progress đã công bố kết qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ dân Đa Đảo (Polynesian)và thổ dân châu Mỹ có cùng một ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn hoá Lapita (1.500-800T CN) với đồ gốm thẩm mỹ độc đáo. Hiện ở Trung tâm văn hoá Đa Đảo ở Hawai còn trưng bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo thế thăng bằng trên mặt biển.
Chim Hồng, chim Lạc.
Tháng 3.2007, Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Mỹ đã công bố công trình của các nhà nhân chủng thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên toàn vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã đi tới kết luận: “Nghiên cứu mới về DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và người Việt cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới New Guinea, Hawai và Polynesia. Họ mang theo kỹ thuật làm thuyền độc mộc. Nghiên cứu mới về DNA đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương – hầu hết cư dân trong vùng có nguồn gốc từ VN.
Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương Nam mà VN là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương”.
Người Việt có tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền; có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D và không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền học gọi là “Đột biến đặc biệt Á châu” nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á.
LỊCH SỬ VIỆT – THẾ GIỚI
Giải mã gene người Việt cổ

Nhà văn Nga V. Rasputin đã viết “Không làng quê, chúng ta sẽ mồ côi”. Vì thế những câu hỏi: Tôi là ai? Tôi từ đâu tới? luôn đau đáu trong tâm thức mỗi người dân Việt.

Những năm gần các nghiên cứu về Việt tộc và Hán tộc của các nghà nghiên cứu trên thế giới đem lại những kết quả bất ngờ.Các nhà khoa học của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại Sỹ, GS Tarentino (người Ý) và GS sinh vật học Varcilla Pascale (người Pháp) đã khảo sát y phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau đó kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa Bắc đã kết luận: Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung VN, Lào, Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc và hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực song Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ sông Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.
Vua Hùng Vương.
Phát hiện đảo lộn. Năm 1998, GS  J.Y. Chu và 13 đồng nghiệp ở ĐH Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi vệ tinh” DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2 nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Newn Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu.
Công trình nghiên cứu Ða dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project ) do giáo sư Y. Chu chủ trì, được công bố đã đảo lộn nhận thức của giới khoa học về nguồn gốc của người Ðông Á. Qua đó, có thể khẳng định: Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu. Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền khác với người Trung Quốc ở phía Nam Trung Quốc.Đặc biệt, các công trình nghiên cứu mới nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn phát tích của cư dân vùng Đông Nam Á đã làm sáng tỏ một sự thật là tất cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một cội nguồn chủng tộc.Giáo sư Douglas C. Wallace (ĐH Emory, Atlanta và Georgia) đã phát hiện một đột biến di truyền đặc biệt cho lục địa châu Á. Đó là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII và tRNA.LYS.Dân tộc cổ xưa nhất. Nhà nhân chủng học Tréjaut nghiên cứu về thổ dân Đài Loan, dân Đông Nam Á và dân Đa Đảo đã công bố: Thổ dân Đài Loan đã định cư trên 15.000 năm và cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai.  Dân Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này. Yếu tố mtDNA B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia, thổ dân châu Mỹ và dân Đa đảo.Nhà nhân chủng Melton và Redd tìm thấy cư dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của cặp căn bản số 9 ở hai thể di truyền COII/ TRNALYS.GS.Christian Pelzes chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á học ở ĐH Hawaii đã nhận định rằng trong các tiểu bang và các nền văn hóa của xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ thì quần đảo Hawaii có quan hệ thân thuộc nhất với VN. Nhà nghiên cứu Bob Krauss đã so sánh Hawaii với Việt Nam trên các phương diện địa lý và dân tộc đã tìm ra rất nhiều điểm tương đồng và các chứng liệu cổ sử học, nhân chủng học, ngôn ngữ tỷ hiệu và nhất là Mitochondrial DNA Haloptype B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền COII TRNALYS chứng minh dân Đa đảo (Polynesian) là hậu duệ của dân Bách Việt.Dựa trên những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục, tạp chí Science Progress đã công bố kết qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ dân Đa Đảo (Polynesian)và thổ dân châu Mỹ có cùng một ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn hoá Lapita (1.500-800T CN) với đồ gốm thẩm mỹ độc đáo. Hiện ở Trung tâm văn hoá Đa Đảo ở Hawai còn trưng bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo thế thăng bằng trên mặt biển.
Chim Hồng, chim Lạc.
Tháng 3.2007, Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Mỹ đã công bố công trình của các nhà nhân chủng thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên toàn vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã đi tới kết luận: “Nghiên cứu mới về DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và người Việt cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới New Guinea, Hawai và Polynesia. Họ mang theo kỹ thuật làm thuyền độc mộc. Nghiên cứu mới về DNA đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương – hầu hết cư dân trong vùng có nguồn gốc từ VN.
Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương Nam mà VN là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương”.
Người Việt có tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền; có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D và không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền học gọi là “Đột biến đặc biệt Á châu” nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á.

Chủ Nhật, 8 tháng 3, 2015

LỄ TẾ VÀ LỄ KÍNH ÔNG TRỜI.

                                          LỄ TẾ VÀ LỄ KÍNH
                
*Một năm làm 4 lễ Tế Trời ( Thượng đế): Các ngày chuyển tiết, sang mùa quan trọng (chuyển nguyên khí vũ trụ), gồm: Ngày Xuân Phân, Hạ Chí, Thu Phân, Đông Chí-phải làm lễ tế Vua Cha. Các ngày này, nguyên khí tụ lại Trung cung. Cúng đơn giản tại nhà, hoặc hành lễ tập trung, lễ chay nếu có tùy tâm, có thể thiền lấy năng lượng, cùng thông linh với Thiên đình. Sau này khi có điều kiện, phát triển, có thể làm Lễ hội lớn.
*Một năm làm 3 lễ kính: Có thể cúng lễ chay. Đọc Kinh Kính Ơn Cha, Kính ơn Mẫu Vương Tiên và Thiền, cầu nguyện cho Nhân loại bình an, đại đồng. Sau này khi có điều kiện, phát triển, có thể làm Lễ hội lớn.
-Kính ơn Cha-Thượng đế vào ngày 9/1 âm lịch.
-Lễ kính ơn Thầy9/8 âm lịch.
-Lễ Kính ơn Mẹ -Ngày 9/12  âm lịch.
                   Phương Đông-phương Tây đều cùng làm lễ như trên.
                              ………………………………………….
                    PHẦN 3-HƯỚNG DẪN CÁCH LỄ THIÊN ĐÌNH
TỰ LÀM LỄ CẦU GIẢI HẠN ÁCH, NĂM XUNG THÁNG HẠN, CHỮA BỆNH. XIN CỨU ĐỘ.
          
                                                  Lập 3 mâm Lễ:

-Vật phẩm tùy tâm
Yêu cầu:
                              Treo Thiên Phù trên cao ở giữa rồi hành lễ

Mâm 1-Lễ Vua Cha, Mẫu Vương Tiên và Thiên đình: Toàn đồ chay tịnh: Hương hoa, chè, xôi, bánh…
-Mâm đặt cao nhất. Đốt 3 ngọn nến, đặt ngang hàng, ngọn ở giữa cao hơn hai ngọn bên.
Mâm 2: Lễ các vị tôn thần, thiên binh thiên tướng, Táo quân, thành Hoàng, long thần bản thổ.
Toàn đồ chay tịnh: Hương hoa, chè, xôi, bánh… tiền thật, rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở giữa.
Mâm 3: Lễ gia tiên ( Hội đồng Cửu huyền thất tổ).
- Toàn đồ chay tịnh: Hương hoa, chè, xôi, bánh…tiền thật, rượu, hoặc bia đều được. Không cúng hàng mã.
-Để ở dưới thấp hơn mâm 2.
-Các mâm dùng cốc để cắm mỗi mâm 3 nén hương.
-Khấn như trong sớ. In ra đọc rồi đốt.
Nếu có điều kiện thì in màu càng tốt, in nhiều bản để dùng. Các Đạo sư, thầy tâm linh cho phép giữ nguyên phủ thờ, thờ Thiên đình hay Tứ phủ công đồng, hoặc các tôn giáo, có thể dâng kính Thiên Phù lên nơi cao nhất của Điện thờ, hoặc cung thờ; sau đó cho làm phép này để tấu khấn Thiên đình. Nếu làm theo phép này, Chư Thiên sẽ độ cho tốt hơn. Đây là Luật Mới.




Ý nghĩa 7 vị Bắc Đẩu Cổ Phật( p.2)

                                              KẾT LUẬN:
7 vị Bắc đẩu cổ Phật (theo đạo Phật)-cũng là 7 vi tinh quân (theo Đạo giáo-và các pháp môn)-là các Đại thiên thần theo Thiên Chúa giáo.
Họ chính là Thượng cổ Thiên Thần do Thượng đế sinh ra từ khi khai càn khôn vũ trụ. Hội đồng 9 vị Bắc Đẩu là Đại tổng quản các Thiên thần; chủ giữ bản mệnh con người, muôn vật.
Về mặt hình thể vật chất: 9 vị Bắc đẩu hợp nhất, cũng được coi tượng trưng là Đức Vương Mẫu Phật; hay là Mẫu Vương Tiên-Mẫu Thượng Thiên-Chủ trì Hội đồng chư Phật, chủ trì đầu thai, nghiệp quả, tạo luân hồi, sinh ra thể xác khí chất tạo nên hình thể vũ trụ hữu hình; văn hóa Phương đông gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ-cai quản Thượng Thiên, hay trong đạo Tứ phủ Việt Nam gọi là Mẫu Thượng Thiên. Đạo Cao Đài gọi là Diêu Trì Kim Mẫu, đạo Giáo Trung Hoa gọi là Giao Trì Kim mẫu. Chúng ta thống nhất gọi là Đức Vương Mẫu-hay là Mẫu Vương Tiên, Mẫu Phật. Cha-Mẹ là 2 phần của Thái Cực âm-dương. Các con tu luyện về trời phải vô cùng kính trọng Mẫu Vương vĩ đại đã ngàn đời nay tạo tác mọi mầm sống cho vũ trụ, cho muôn loài chúng sinh.
Tất cả nhân loại phải thấu hiểu sâu sắc điều này, mới gọi là hiểu về Chân Lý đúng đắn-Giác ngộ.

Chúng ta tôn thờ Cha-Thiên Phù như thế, là HỢP NHẤT TÍN NGƯỠNG-TÔN GIÁO NHÂN LOẠI, vạn pháp qui tôn, vạn phép qui thiện. Tất cả đều là một gốc sinh ra, chỉ có cách gọi khác nhau, các tôn giáo phân hóa thành khác nhau.
-Đại Thiên Thần-Đại Tinh quân-Đại Thánh-cũng chính là các Đức Cổ Phật vậy! Tu luyện để về Thiên Đường-đồng nghĩa về Niết Bàn. Trên Thiên Đình có Vua-đó là Thượng Đế. Nên gọi là Vua Cha. Có Mẫu Vương-Mẹ muôn loài. Thần-Thánh-Tiên-Phật cũng đều là con Cha Mẹ. Các giáo chủ trực tiếp là hóa thân của Thượng đế lâm phàm dạy Đạo.

                                        CÁCH KHẤN NIỆM:

-Ai đeo Thiên Phù, thì nên học thuộc bài thơ Kính Ơn Cha, Kính ơn Mẫu Vương, để đọc trong những lúc tu luyện, gặp việc cần xin khấn, ngày lễ tết, sóc vọng…
            
                                     Kính ơn Cha ( Thượng đế)

Trên đỉnh Trời cao chót vót!
Toà Bạch Ngọc Đài, Cha ngự Thiên Linh
Cha sinh muôn loài, Cha của muôn sinh
Hạnh phúc nào bằng Cha trao cho sự sống
Cha là  Trời mênh mông lồng lộng
Cha là dòng máu hồng chảy mãi trong tim
Cha là ánh sáng  ngọt ngào rất đỗi dịu êm
Đưa chúng con vào cuộc trường sinh bất tử
Cha là ngọn đèn muôn năm soi tỏ
Vạn kiếp chúng con đi như gió bên Người
Người là dòng sông nguyên khí sữa nuôi
Mật ngọt và đắng cay, Cha chở che nhẫn chịu
Võng Ngân Hà, Cha đan cho con, Mẹ địu
Trên vai Người lịch sử nối vạn triệu năm
Nụ hoa đời cho Hạ thế chỉ chăm
Công tưới ấy, Thiện Mỹ này Cha dạy
Trong Vũ trụ ngọn  Nguyên Đăng bỏng cháy
Gieo bình minh đến khắp thế gian
Tạo giàu sang, nâng đỡ kẻ cơ hàn
Nuôi văn minh, sửa sang đời lạc hậu
Cha truyền cho ngọn nguồn tranh đấu
Sức sống vươn lên chân chính của muôn loài
Cha chở che, đùm bọc thủa hoài thai
Gieo mầm sống cho vạn đời nhân thế
Công ơn ấy làm sao đo đếm xuể
Khi sinh linh vạn giới bởi tay Người!
Ôm trọn vòng tay, Người-Vũ trụ, Người ơi!
Con -hạt cát trong tay Cha vĩ đại
Con xin dâng lên Đức Cha hiền mãi mãi
Linh hồn con-giọt ngọc của Cha
Tâm hồn con là một bông hoa
Dâng hương ngát lên vườn Thượng giới
Ánh mắt con như vạn lời hướng tới
Dâng lên Cha lời hát ngọt ngào
Đây hồn con như khí thanh tao
Rửa hết bụi hầu bên Cha ngự
Bao vật phẩm của thế gian các thứ
Con dâng lành cung chúc Cha thương
Và Cha ơi, trên mọi nẻo đường
Con cầu mong Cha thường nhắc việc
Giáng Thiên linh cho tỏ tường các kiếp
Phù nhân gian, phù thiện phù sinh
Diệt ác gian trọc hết lọc thanh
Cho thêm sức an lành cuộc sống
Đức phủ trùm là Trời biển rộng
Thượng Đế Cao Minh con xin kính thương Người! 

                                            Kính Mẫu Vương

Nơi chính giác Thượng Thiên cõi tám
Đất Phật diệu huyền cực lạc Thiên Linh
Mẹ ban quyền giáo hóa chúng sinh
Quản nhân mạng thọ toàn duyên nghiệp
Mẹ sinh ra chúng con các kiếp
Cho nhân luân số phận làm người
Là cội nguồn sự sống khắp nơi nơi
Ân quả ấy tạo nên thời Thánh Đức
Kim Tự Tháp ngự tình Vương Phật
Tâm giáng sinh truyền giáo đời này
Đem giáo lý phổ khắp tới nay
Gieo đức thiện ngàn năm ghi tạc!
Lòng mẹ bao la như muôn ngọn thác
Rửa chuộc khổ đau ghánh tội nhân luân
Dạy dỗ bảo ban cho loài người thế tục
Xin dâng lên Mẹ vạn lời con chúc
Cho khổ đau vơi bớt Mẹ ơi
Mong cho Mẹ được nở nụ cười
Đây Thiên Đạo chúng con vào Thánh Đức
Đại Đồng này dâng lên Người thiện ngọc
Là hoa đời cực lạc muôn năm…..


-Cầu, Khấn xin việc gì đó, nhưng phải thật tâm trong sáng, chân thành, cấm cầu các việc ác, tranh tham danh lợi…
 -Đọc xong thì hướng về phương Bắc-hướng sao Bắc Đẩu-quì lạy 9 lạy: Quì, chống gối, cúi đầu, rập đầu xuống sát đất, hai tay đặt song song, úp xuống đất, để trước gối. Mỗi lần quì, ngẩng lên, lại đặt tay vào ngực, như lễ trên, rồi lại rập đầu.
                                           

                      CÁCH SỬ DỤNG THƯỢNG ĐẲNG THIÊN PHÙ:

1-Mang Thiên Phù, phải giữ lòng lành thiện trong mọi lúc, mọi việc.
2-Vào ngày có số 7, hoặc 9, hoặc vào ngày sinh nhật mình, để nhớ về Trời, ơn Thượng đế, chúng ta hãy hướng về phương Bắc, nhìn lên 7 ngôi sao Bắc Đẩu, khấn niệm điều thiện lành cho mình, gia đình và nhân loại.
3-Học Thiền hàng ngày để giảm rung động thể vía xuống để an lạc và chữa bệnh.
                               

Khi thiền định, hay luyện khí công chúng ta hình dung 7 sao Thiên Phù trùm lên, trùng với 7 sao bản thể luân xa của chúng ta; khi thiền, chúng ta quán tưởng bản thể mình trùng với 7 sao Bắc Đẩu, trục Hoả xà trùng trục Thiên Phù; tinh thần bành trướng ý thức ra toàn Vũ Trụ.
-Nếu xuất được hồn vía, ý thức ra khỏi bản thể, chúng ta đi xuyên lên 7 sao Bắc Đẩu này, tâm thanh sáng, xả bỏ mọi trọc khí ám khí xung quanh bản xác thể hàng ngày, chắc chắn luyện như thế đã đắc thoát luân hồi thường chuyển.
4-Khi có bệnh tật: hình dung ốp Thiên Phù vào người, rồi hình dung có một dòng năng lượng vũ trụ màu sáng, chảy từ trên cao theo dây Từ khí xuống luân xa số 7 ở đầu, chảy dọc theo trục Thiên Phù, xuống đến Đan điền, hoặc hình dung dẫn khí theo ý từ đỉnh đầu đến tất cả những kinh mạch, tới nơi đau bệnh, niệm 7 vị Tinh quân Bắc đẩu cứu độ, chắc chắn bệnh sẽ bớt.               
                                

                                  


5-Khi gặp ma tà quỉ ám, việc khó, kẻ xấu ám hại, việc xấu quấy phá…quay về phương Bắc đẩu, niệm phép khấn Vua Cha Cao Minh Ngọc Hoàng Thượng đế, Mẫu Vương Tiên, cùng 7 vị Thất tinh Bắc đẩu quản số mệnh con người và muôn vật, xin các Đại cổ Thiên Thần này cứu độ, cứu chữa….Với tâm thiện, cấm cầu các việc ác. Nếu cầu việc ác, sự thể sẽ quay ngược quả lại mình.
 -Xưa kia và bây giờ, các thầy bà phù thuỷ, hay đồng cốt đều dùng kiếm Thất tinh để trừ tà, đóng cọc hình sao Bắc Đẩu để trấn yểm, phá yểm bùa bả, hoặc phá rớp tai nạn, hoặc dùng bộ Đạp cương tẩu để luyện phép phù thuỷ…
Nay chúng ta với tâm thế tốt, hãy niệm Thiên Phù trùm lên các sự trên để hoá giải, với lời khấn nguyện trong sáng, chân thành, tất được như ý.
6-Vào lúc giờ thứ 9 trong ngày, tức giờ Thân-ngồi xếp bằng, lạy 9 lạy, hướng về phương Tây, khấn Đấng Trung Phương Thiên Tôn cứu độ, chữa bệnh, giải hạn ách, tất được như ý. Hình dung và sẽ được một dải ánh sáng bạch kim chảy vào luân xa 4, hoặc 6. Khi niệm phép này rồi thiền ở Luân xa 6-tức sao 6, có thể tuyến tùng mở, con mắt thứ ba hay huệ nhãn sẽ mở, xuất hiện thần thông…Tất nhiên phải kiên trì, tập lâu, giữ lòng lành thiện.
7-Khi niệm Thiên Phù, tất cả mọi long thần, thổ địa, thành hoàng bản thổ bản cảnh, thần thánh tiên phật, đến quỷ ma đều kính trọng, tuân theo Phép Luật Thiên đình-phép luật cao nhất thuộc Chân Lý Tối thượng. Khi niệm vào người, rung động nguyên tử lượng của các tế bào sẽ tăng, nội năng tiến hoá, linh hồn bẩm thụ nguyên khí chất Thượng thanh nơi Bạch Ngọc cung và Ngọc Hư cung nơi Vua Cha và Mẫu Vương ngự, linh hồn đó sẽ được thanh thoát hơn, bệnh nạn tiêu trừ, nghiệp kiếp lược bỏ; phát tâm nguyện hồi về Thiên giới, tất được như ý sau khi bỏ xác trần.
8-Vào các ngày Xuân Phân, Thu Phân, Hạ Chí, Đông Chí, là ngày thông cung, muôn vật nhập trung cung, nếu niệm, thiền, ốp Thiên Phù vào người, luyện khí công, khai Thiên Nhãn, cũng được phép màu cứu độ.
9- Cho phép tự đúc, in Thiên Phù theo cách riêng, nhưng phải đúng hình Thiên Phù.
Người mang Thiên Phù không là tôn giáo, không cần thành môn phái. Tất cả mọi người, mọi quốc gia, dân tộc, tôn giáo đều có thể sử dụng như nhau, khi đã tôn vì một Đấng Sáng tạo Tối cao.

………………

-Thờ Thượng đế, có Thiên phù, thì không cần làm lễ giải  sao giải hạn, cúng sao…như cũ nữa; vì như thế là có thường xuyên đầy đủ thờ cả Thiên đình, các sao, thần, thánh, tiên, phật đều chứng ứng. Thờ như trên cũng là thờ chính bản mệnh mình (sao bản mệnh trong phép tử vi-ai cũng rõ, nên rất lợi ích tâm linh, tâm đạo).
Không đọc chú, lạy như các tôn giáo trên: Chỉ đọc Kinh Kính ơn Cha, lạy 9 lạy, đọc chú:-Cha Thiên linh Đại linh linh, Mẹ Thiên linh Đại linh linh, Thầy Thiên linh đại linh linh, phù hộ…” là được. Và phải tu luyện Thiên Pháp để tiến hóa, mới giải được nghiệp quả, vãng sanh tịnh độ về sau.
-Quán tưởng nhập giáng Thiên Phù khi tập Thiên pháp, quán nhìn vào Thiên Phù để lấy năng lượng cộng hưởng của Vũ trụ-Thượng đế.




NGƯỜI ĐEO THIÊN PHÙ CẦN THỰC HIỆN ĐỦ 9 ĐIỀU SAU, MỚI MONG ĐƯỢC LINH NGHIỆM HƠN:

                                      9 ĐIỀU KHÔNG PHẠM
 1-Không  bỏ: Tôn thờ Vua Cha Thượng đế.
 2-Không chiếm: Của cải, tài danh, hạnh phúc của người khác.
 3-Không tham: Danh lợi, vật dục tầm thường.
 4-Không nói:  Gian dối, xảo ngôn, ác ý, hồ đồ.
 5-Không quên:  Người nghèo khổ, hư dốt.
 6-Không gây:  Hận thù, chiến tranh, giết hại chúng sinh.
 7-Không ở: Bẩn thỉu và phá hại môi trường.
  8-Không nghiện: Các chất kích thích nặng.
  9-Không ngừng: Xây dựng Thiên đường Hạ giới - (Xã hội Cộng sản An lạc Đại đồng-Đại Thiện-Đại Mỹ-Đại Linh hàng vạn năm sắp tới)

*Ngoài ra, cần tu luyện Thiên Pháp đến khi thành thần thông, đạt Chính giác, siêu Giác ngộ, siêu thoát tại thế, rồi xây đời, đời đạo song tu.